Chat Zalo
Chat Facebook
0912.055.661

Sơ lược về cuộc đời và 8 tướng thành đạo của Phật Thích Ca Mâu Ni

Theo các bộ kinh ghi chép, khi một vị Phật ra đời độ sinh luôn "thị hiện" tám tướng thành đạo. Điều này xem như một chứng thực cho một đức Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện thành Phật ở cõi Ta-bà, từ lúc đản sinh cho đến ngày nhập diệt niết bàn đã thị hiện đủ tám tướng trọng đại. Điều này được ghi chép chân thực trong kho tàng sử liệu Phật giáo. Ngày nay, không chỉ trong chùa, miếu, nhiều người thỉnh tượng Phật Thích Ca Mâu Ni về thờ tại gia. Trong bài viết này, cùng tìm hiểu sơ lược về Đức Phật và 8 tướng thành đạo của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Sơ lược về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni

Thích Ca Mâu Ni là một triết gia, học giả, người sáng lập nên Phật giáo. Ngài được cho rằng từng sống vào thời kì Ấn Độ cổ đại khoảng giữa thế kỷ thứ 6 và 4 trước Công nguyên. Trong các bộ kinh Phật giáo truyền lại và sử liệu, Ngài là vương tử Gautama của tiểu quốc Shakya ở Kapilavastu. Tên của Ngài là Siddhartha (Tất-Đạt-Đa) có nghĩa là "người thành đạt nguyện vọng".
 
Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lumbini, nay thuộc Nepal. Trước đó, hoàng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà, vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà. Lúc đó bà cảm thấy thân tâm khoái lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà la môn đến giải mộng. Các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một đại đế hoặc một "thánh nhân tiếng tăm lừng lẫy".
 
Theo các sử liệu ghi lại, ngay từ lúc sinh ra, Thích Ca Mâu Ni đã có đầy đủ Ba mươi hai tướng tốt. Sau này, Ngài quyết tâm tu đạo, đi tìm con đường giác ngộ. Sau 5 năm theo khổ tu vẫn không thành, Thích Ca quyết tâm thay đổi và đạt được giác ngộ vào năm 35 tuổi. Sau này Ngài trở thành Đức Phật Như Lai, dùng trọn 45 năm cuộc đời còn lại để giảng dạy chánh pháp và thuyết Pháp cứu độ. 
 
Phật Thích Ca Niết bàn tại thành phố Kuṣinagara của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên (một số nhà khảo cổ thì cho rằng đó là năm 486 hay 483 trước Công nguyên), địa điểm này được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh ngày nay.
Phật thích ca mâu ni

Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế là một vị Vương tử của tiểu Vương quốc Shakya

8 tướng thành đạo của Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong 80 năm tại thế của Đức Phật Thích Ca, các sử liệu Phật giáo ghi chép lại Ngày đã thị hiện đủ 8 tướng trọng đại nhất. 

1. Tướng thành đạo thứ nhất: Giáng sinh từ cõi Đâu - suất

Như Đức Nhiên Đăng Cổ Phật (là vị Cổ Phật xuất hiện trước thời Phật Thích Ca) huyền ký: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ đản sinh vào cõi người để ban trải giáo Pháp về con đường giải thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ. Trước khi hạ sinh vào cõi Ta bà - thế giới loài người, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni an trụ ở cung trời Đâu Suất, sống trong cảnh giới vô cùng an vui, thanh tịnh.
 
Ngài có Hồng danh là Bồ tát Hộ Minh (tiếng Tạng là Lhayi DampaTogkarpo). Ngài được tôn vinh là bậc Nhiếp Chính của Đức Phật Ca Diếp đời trước. Cung trời Đâu Suất là cõi Tịnh độ nơi Đức Phật tương lai - Phật Di Lặc, hiện là bậc Thiên chủ đang thuyết Pháp. Đó là một trong sáu cõi Dục giới của chư Thiên, cũng là nơi an trú của chư vị Bồ Tát…

2. Tướng thành đạo thứ hai: Đức Phật nhập thai mẹ trong hình tướng Voi trắng sáu ngà

Một hôm, hoàng hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà ôm bó hoa sen hương thơm ngào ngạt giáng nhập vào hông bà. Các thầy Bà la môn tiên đoán là hoàng hậu đã thọ thai sẽ là một đại đế hoặc một "thánh nhân tiếng tăm lừng lẫy".
 
Đại bồ-tát từ khi vào lòng Phật mẫu, gá thai bào, lần lần lớn lên, không hề làm cho hoàng hậu khó chịu; trái lại, được sức khỏe, an vui và mát mẻ hơn. Thai nhi ngồi an nhiên ở trong bụng như một bức tượng vàng trong động báu, chân xếp kiết già, hướng mặt ra phía trước rất khác với phàm nhân.

3. Tướng thành đạo thứ ba: Đức Phật đản sinh, bước 7 bước trên bông sen Thất Bảo

Đức Phật đản sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak (rằm tháng tư). Ngài ra khỏi lòng mẹ nhẹ nhàng như một vị pháp sư duỗi chân bước xuống pháp tòa. Vừa chào đời, Đức Phật đã xuất thần đứng dậy, đi về hướng Đông bảy bước, dưới đất trồi lên bảy hoa sen đỡ bước chân ngài. Có hai vị chư thiên bưng năm món triều phục của Chuyển luân Thánh vương đi hầu hai bên. Phật Thích Ca một tay chỉ thượng, một tay chỉ hạ, nói lên câu kệ:
"Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Vô lượng sinh tử
Ư kim tận hỷ"
Thời Đức Phật đản sinh còn có 7 nhân vật đồng sinh để trợ duyên cho Đại Bồ tát:
 
Công chúa Yasodharā (Da Du Đà La); Ānanda (A Nan), con hoàng thân Amitodana, em ruột đức vua Suddhodana. Channa (Xa Nặc) - người hầu ngựa; Kāḷudāyi - con một lão thần lương đống, sau này thỉnh đức Đại Giác về thăm Kapilavatthu; Ngựa Kaṇṭhaka (Kiền Trắc); Cây Bồ đề - nơi Phật ngồi thành đạo; Bốn hầm châu ngọc. Do túc duyên ba-la-mật từ nhiều a-tăng-kỳ kiếp, bảy nhân vật đồng sinh để trợ duyên cho quả vị Chính Đẳng Giác.
 
Từ khi sinh ra tới khi nhập Niết Bàn, Đức Phật đã thị hiên qua 8 tướng để thành đạo

4. Tướng thành đạo thứ 4: Xuất gia tướng

Ngay khi vừa chào đời, Vương tử đã hội đầy đủ 32 quý tướng và 80 vẻ đẹp của bậc Tối Thượng Nhân.Trong tương lai, Hoàng tử sẽ đắc thành quả Phật, một vị đại A-la-hán toàn bích. Chúng sinh vạn loài sẽ nương nhờ giáo pháp của đức Đại Giác ấy mà thoát khổ được vui, được đến cõi miền chân phúc và tự do…
 
Nhằm đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch, Thái tử Cồ Đàm từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ con, cuộc sống đầy đủ và êm ấm của một hoàng tử. Ngài khoác trên mình bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, từ nay bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Khi đó Ngài mới 19 tuổi.
 

5. Tướng thành đạo thứ 5: Đức Phật hàng ma tướng

Trong đêm thành Đạo của Đức Phật, khi đó có đủ các loại nội ma như ma sân giận, ma tham ái, ma si mê danh vọng, … xuất hiện. Gọi là ma nhưng đó không phải là ma bên ngoài mà chính là trạng thái tâm của người trước khi thành đạo - đó là ý nghĩa của chữ “ma vương” trong Phật giáo. Ma vương có 5 loại: Phiền não ma; Ngũ uẩn ma; Pháp hành ma; Tử diệt ma; Chư thiên ma. Cả năm thứ ma trên đều làm trở ngại cho tiến trình giác ngộ. Vì vậy, hễ chiến thắng được ngũ ma, nhất là ma phiền não là đã thành công trong cứu cánh giải thoát.
 
Chủ trương của Đức Phật là chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ bằng chính những đức độ cao dày mà Ngài tu tập trong vô lượng kiếp. Đức Phật không hàng phục Ma vương bằng thần thông quảng đại mà bằng Ba La Mật lực của Ngài. Sức mạnh Ba La Mật chính là những đặc tính: bố thí, trì giới, xuất gia, tinh tấn, trí tuệ, nhẫn nại, cương quyết, chân thật, tâm từ và tâm xả.

6. Tướng thành đạo thứ 6: Tiến trình chứng ngộ trong đêm Phật thành đạo

Đức Phật đã kể lại cho gia chủ Tapussa và tôn giả A-nan về tiến trình chứng ngộ trong đêm thành đạo (Tăng chi bộ kinh III, phẩm IX pháp): Đó là 9 cấp bậc thiền chứng từ sơ thiền cho đến diệt thọ tưởng định, gọi là 9 cấp bậc thiền chứng theo thứ lớp.
 
Sau khi chứng đạt và xuất khởi 9 cấp độ thiền chứng này, Ngài thấy bằng trí tuệ mọi lậu hoặc bị đoạn diệt, khi đó Ngài mới thành tựu Chính đẳng chính giác. Theo kinh Phật ghi lại: khả năng “thấy bằng trí tuệ” này chính là Tam minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh.
 
Sau 49 ngày đêm, chuyên sâu vào thiền quán, tu tập tâm ly dục, ly ác pháp,Thích Ca Mâu Ni chiến thắng nội chướng lẫn ngoại ma, nào tham luyến, dục vọng, phiền não, sân hận, đói khát, cô đơn...luôn hiện đến quấy nhiễu.
 
Đêm cuối cùng, vào lúc canh một, Ngài hướng tâm về Tuệ giác, nhớ lại những kiếp quá khứ, từ một kiếp, hai kiếp, ba kiếp đến trăm ngàn muôn ức kiếp. Hoặc ở thế giới này hay thế giới khác, hoặc ở quốc độ này hay quốc độ khác, hoặc ở gia đình này hay gia đình khác, hoặc mang thân này hay thọ thân khác. Ngài cũng thấy như vậy với tất cả những loài sinh ra từ thai, loài sinh ra từ trứng, loài sinh từ nơi ẩm ướt và loài sinh từ phân thân biến hóa. Thấu rõ thân này vốn không có thực, vốn không có nguồn, vô thỉ vô chung, không từ đâu đến, không đi về đâu. Đức Phật soi rõ thấy sự sống và chết của chúng sinh. Ngài thấu tỏ sinh mệnh của từng chúng sinh: người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của bản thân người đó. Đức Phật thấy biết rõ vô lượng vô số thế giới từng co giãn sinh ra, hình thành, biến hoại và hủy diệt. Thấy tất cả chúng sinh từng sinh ra, hình thành, biến hoại và hủy diệt trong vô lượng vô số kiếp. 
 
Nhưng đó chỉ là những biểu hiện duyên khởi bề ngoài chứ không hề hấn gì tới thực tướng của pháp giới. Ví như hằng triệu đợt sóng lô nhô trên mặt biển cả, nhưng lòng đại dương không vì có những hiện tượng như thế mà sinh diệt, diệt sinh. Đạt đến đó, Ngài chứng được Thiên nhãn Minh.
 
– Đây là phiền não, ô nhiễm, khổ đau.
 
– Đây là nguyên nhân tập khí gây ra phiền não, ô nhiễm, khổ đau:
 
– Đây là sự chấm dứt phiên não, ô nhiễm, khổ đau.
 
– Đây là phương pháp dẫn đến sự chấm dứt phiền não, ô nhiễm, khổ đau.
 
Quán chiếu như thế, tâm Ngài hoàn toàn giải thoát khỏi Dục lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu, dứt hẳn sinh tử luân hồi, khổ đau vạn kiếp. Đạt đến đó Ngài chứng được Lậu tận Minh.
 
Ngài thấu rõ Khổ tướng hiện tại, đoạn mọi phiền não lậu hoặc dứt khổ sinh tử, an vui giải thoát. Thấy rõ mầm mống của phiền não và sinh tử. Chuyển phiền não thành Bồ đề, sinh tử thành Niết bàn; màn vô minh đã được giải tỏa thì trí tuệ phát sinh. Rõ được sự sinh - tử là phi sinh phi tử. Cũng còn gọi là nhất niệm vô sinh, tánh không tịch diệt, hay là Kim cương đại định.
tượng Phật Thích Ca mâu ni
 
Vào năm 19 tuổi Ngài Tất Đạt Đa từ bỏ ngai vị, người thân, cuộc sống hướng lạc để đi tìm con đường giác ngộ

7. Tướng thành đạo thứ 7: Đức Phật thuyết giảng Chuyển Pháp luân

Bảy tuần sau khi chứng đạt giác ngộ, Đức Phật không định thuyết pháp. Bởi giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật là thậm thâm vi diệu, vắng lặng, cao siêu, vi tế; lại ở ngoài phạm vi của lý luận, suy đoán, kiến thức và hiểu biết thường phàm, rất khó thấu triệt; lại đi ngược dòng đời, dòng tham ái thì làm sao phổ biến giữa cuộc đời – khi mà chúng sinh vốn xem hạnh phúc là sự thỏa mãn dục trần?
 
Nhưng vua trời Phạm Thiên và Đế Thích đã cúng dàng thiên nhạc, thành tâm ba lần thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân vì lợi ích chúng sinh cõi Sa bà.
 
Đức Phật lặng lẽ tịnh định dùng thiên nhãn quan sát thế gian và thấy rõ rằng: “Chúng sinh có rất nhiều giống loại, nhiều căn cơ, tâm trí, nhiều dị đồng sai khác; như sen trong đầm nhiều sắc màu đỏ xanh vàng trắng với đa dạng các trạng thái sinh trưởng khác nhau: có cây ở đáy hồ, cây vừa ra khỏi bùn, cây đã bừng nở hoa tinh khôi hương sắc cho thế gian mà chẳng dính một chút bùn nhơ…”.
 
Chiêm nghiệm, liên tưởng như thế xong, Đức Phật tuyên bố - giọng như sư vương giữa bình minh kỷ nguyên mới: “Cửa vô sanh bất diệt đã mở cho muôn loài chúng sinh. Ai có tai để nghe, có mắt để thấy, có trí để thấu hiểu, hãy đặt trọn vẹn niềm tin tưởng”.
 
Kinh Chuyển Pháp luân chính là bộ kinh đầu tiên Đức Phật thuyết giảng cho năm anh em ông Kiều Trần Như. Nội dung bài pháp là những nguyên lý chính yếu và quan trọng nhất của Phật giáo.
 
Bài pháp đầu tiên Ngài thuyết là pháp Tứ Diệu đế - Bốn Chân lý nhiệm màu. Đây là bài pháp làm nền tảng cho 45 năm thuyết pháp của Phật. Nội dung bài pháp này chỉ rõ con đường Trung đạo là tránh xa sự đắm say dục lạc và khổ hạnh ép xác.
 
Đức Phật Như Lai đã chỉ ra con đường vô cùng thực tiễn, hợp lý và hữu ích. Đây là con đường Trung đạo duy nhất dẫn đến trạng thái an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn.
 

8.Tướng thành đạo thứ 8: Đức Phật nhập Niết bàn

Ðức Phật Thích Ca cho ông Ananda biết rằng, Ngài vừa hứa với Ma Vương sẽ nhập Niết Bàn, nên quả địa cầu mới rung động như thế. Ngài giải về 8 nguyên nhân làm rúng động quả địa cầu cho Tôn giả Ananda nghe:
 
1. Gió hoạt động mạnh.
 
2. Người có thần thông, dùng thần thông làm cho quả địa cầu rung động.
 
3. Lúc Ðại Bồ Tát giáng sanh từ cõi Ðâu Xuất vào lòng mẹ trong kiếp chót.
 
4. Lúc Ðại Bồ Tát ra đời trong kiếp chót.
 
5. Lúc Ðại Bồ Tát chứng quả Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.
 
6. Lúc Ðức Như Lai chuyển Pháp luân.
 
7. Lúc Ðức Như Lai định nhập Niết Bàn.
 
8. Lúc Ðức Như Lai nhập Vô Dư Niết Bàn.
 
Đức Phật khai thị:
 
"Ta do những Pháp sau đây mà tự chứng ngộ thành bậc Chính-Đẳng Chính-Giác", đó là: “Bốn Niệm-Xứ, Bốn Ý-Đoạn, Bốn Thần-Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bẩy Giác-Chi, và Tám Chính-Đạo”. Vậy các thầy hãy ở trong giáo pháp ấy siêng năng tu học, cùng nhau hưng say (hưng thịnh say sưa) phát triển. Các thầy hãy khéo thụ trì tùy theo trường hợp mà tu hành, tại sao vậy?, vì không bao lâu nữa, Như-Lai, sau ba tháng sẽ nhập Niết-Bàn.
 
Ngài dặn Tôn-giả A-nan-Đà rằng: “Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác”.
 
Các thầy nên biết: “Tất cả vạn vật đều vô thường, vì không có cái gì bền vững mãi mãi, đó là lời dạy cuối cùng của Như-Lai mà các Thầy phải ghi nhớ”.
 
Nguồn: drukpavietnam.org
 
Phật Thích Ca Mâu Ni sống ở Ta Bà 80 năm, trải qua 8 tướng thành đạo thì nhập Niết Bàn

Bảo Long - Đơn vị chuyên đúc tạc và bán tượng Phật Thích Ca Mâu Ni uy tín

Bảo Long là đơn vị uy tín chuyên sản xuất và cung cấp các mẫu tượng Phật Thích Ca, tượng đồng mới nhất, giá cả hợp lý. Nhận đặt theo yêu cầu của khác hàng. Chúng tôi có đội ngũ nghệ nhân dày dặn kinh nghiệm, quy trình chế tác chuyên nghiệp để cho ra đời những sản phẩm tượng Phật Thích Ca Mâu Ni hoàn hảo.
Cam kết chế tác 100% thủ công với chất liệu đồng tinh khiết, kết hợp với các chất liệu quý khác như Vàng, bạc, đồng đỏ,.. để biến các mẫu tượng có tính thẩm mỹ hơn.

=>> Xem ngay các mẫu tượng đồng đẹp nhất 

=>> 100 mẫu tượng Phật bằng đồng cao cấp để thỉnh về thờ

ĐÚC ĐỒNG BẢO LONG

Hotline: 0985.918.661 - 0912.055.661

 
 
 
Video thực tế